NHỮNG
LỰA CHỌN CỦA ĐẢNG
CỘNG
SẢN VIỆT NAM
I/
THỰC
TRẠNG NỀN KINH TẾ ĐẤT NƯỚC
Trong thời gian gần hai năm trở lại đây, nền
kinh tế VN đã gặp nhiều biến động theo hướng khủng hoảng toàn diện. Ban đầu là
sự sụt giá, sự tồn đọng bất động sản kéo theo sự phá sản, giải thể của hàng loạt
doanh nghiệp. Sự sụp đổ của thị trường bất động sản đã ảnh hưởng tới tất cả các
ngành nghề khác trong nền kinh tế, như xây dựng, sản xuất sắt thép, xi-măng,
hàng nội thất, vận tải…đến nay, không còn ngành nghề nào, không còn cá nhân nào
không chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng toàn diện của nền kinh tế. Về cơ bản,
tất cả đều đồng ý, đây là một cuộc khủng hoảng kinh tế lớn.
Tuy nhiên, nhìn nhận và đánh giá về cuộc
khủng hoảng này có hai luồng ý kiến. Luồng ý kiến thứ nhất, cho rằng cuộc khủng
hoảng kinh tế này, cũng như những cuộc khủng hoảng kinh tế trước đó, và cũng
như các nước khác vẫn thỉnh thoảng có các cuộc khủng hoảng, rất đáng lo ngại
nhưng vẫn có thể vượt qua được. Đây cũng là ý kiến chính thống của đảng Cộng sản
và nhà nước Việt Nam hiện nay, và phần lớn những người mong muốn nền kinh tế phục
hồi, không ảnh hưởng tới thể chế kinh tế - chính trị mà họ đang được hưởng lợi
từ đó. Luồng ý kiến thứ hai, cho rằng, nếu không có sự đột phá về chính trị, dẫn
tới sự đột phá về niềm tin của nhân dân, thì nền kinh tế Việt Nam có nhiều khả
năng sụp đổ, kéo theo sự sụp đổ của chế độ. Chúng ta đi vào phân tích các lập
luận của hai luồng quan điểm nêu trên.
1/ Quan điểm lạc quan, tin vào sự phục hồi của
nền kinh tế dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của đảng Cộng sản VN.
Về cơ bản, các lập luận của luồng ý kiến
này dựa vào các yếu tố sau.
a/ Các
số liệu về nền kinh tế được nhà nước công bố, và một phần số liệu của quốc tế. Trước hết, tuy khủng hoảng kinh tế,
nhưng GDP của Việt Nam vẫn tăng trưởng ở mức cao của thế giới và châu Á (năm
2012 là 5,25%; năm 2013 là 5,42%). Số nợ xấu của các ngân hàng thương mại chỉ
là 5-7% theo số liệu của Việt Nam và 10-15% theo số liệu của quốc tế vẫn chưa
phải quá lo ngại; số nợ của chính phủ theo nhà nước công bố là 48,4%GDP, một số
chuyên gia kinh tế cho rằng số nợ chiếm 95% GDP, đó cũng đáng lo ngại nhưng vẫn
có khả năng thanh toán. Số doanh nghiệp bị phá sản trong mấy năm qua rất lớn,
nhưng số doanh nghiệp đang ký mới cũng rất nhiều. Thị trường chứng khoán đang
phục hồi chứng tỏ sự ghi nhận đà phục hồi của nền kinh tế.
b/ Trong quá khứ, đã có những cuộc khủng
hoảng kinh tế tương tự, thậm chí còn nặng nề hơn nhưng vẫn vượt qua được, điển
hình là thời kỳ năm 1985 – 1986, nền kinh tế khủng hoảng, chuyển đổi cơ chế từ
kế hoạch hóa sang kinh tế thị trường. Các nước khác vẫn thường xảy ra các cuộc
khủng hoảng kinh tế tương tự.
c/ Khả năng lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt
Nam vượt qua các thử thách hiểm nghèo
Trên một khía cạnh nào đó, không phải những
cơ sở lập luận của quan điểm này không có lý. Tuy nhiên, những ý kiến phản biện
cho quan điểm này tập trung vào một số điểm sau.
- Những số liệu về kinh tế của nhà nước
công bố không đủ cơ sở tin tưởng và không nói hết được thực trạng của nền kinh
tế. Như bài viết “Nền kinh tế thị trường và nền kinh tế Việt Nam” số liệu về nợ
xấu của ngân hàng đã đưa ra, thậm chí số liệu của quốc tế cũng hoàn toàn không
chính xác. Nợ xấu của ngân hàng đưa ra chỉ là 5-7% tổng dư nợ tín dụng, số liệu
của quốc tế là 10-15%, nhưng qua sự phân tích, số nợ thực là 80-90% tổng dư nợ
(kể cả trường hợp các trái phiếu của chính phủ có giá trị, thì số nợ thực cũng
phải lên tới 50-60% tổng dư nợ). Như vậy, có sự chênh lệch rất lớn giữa số liệu
được công bố và con số thực. Mặt khác, như chúng ta biết, tất cả các số liệu
kinh tế của Nhà nước đưa ra, không hề năm nào nói tới nợ xấu ngân hàng, nợ công
của chính phủ, tất cả đều tốt đẹp, báo chí hết lời ca ngợi. Thậm chí, báo Nhà
Kinh tế của Anh còn đánh giá, Việt Nam ngôi sao kinh tế đang lên (2008). Nhưng đến
một thời điểm, chúng ta thấy “đùng một cái” một số nợ khổng lồ của doanh nghiệp
nhà nước xuất hiện, nợ xấu của ngân hàng xuất hiện. Điều này chứng tỏ, các số
liệu của nhà nước công bố về kinh tế hầu như vô giá trị. Những số nợ của DNNN,
nợ xấu của ngân hàng đến lúc không thể che dấu được mới buộc phải công bố. Mở rộng
ra, chúng ta biết rằng, năm 1997, có trên 2/3 số xã của tỉnh Thái Bình đã khiếu
kiện tập thể vì sự tham nhũng của các quan chức địa phương trong khi các đảng bộ
(xã) của Thái Bình được đánh giá 95-98% trong sạch vững mạnh. Vậy nên, căn cứ
vào số liệu kinh tế được báo cáo để nói về sự tốt đẹp và phục hồi của nền kinh
tế là thiếu cơ sở.
- Trong quá khứ, năm 1985-1986 nền kinh tế
VN đã gặp khủng hoảng nghiêm trọng, kinh tế kiệt quệ, viện trợ bị cắt, nền kinh
tế bị cô lập, cấm vận. Nhưng khi đó, mức sống của người dân vô cùng thấp, nền
kinh tế khủng hoảng chỉ làm gia tăng sự nghèo khổ của người dân, chứ không tạo
ra được cú sốc nào. Mặt khác, dự trữ lòng tin của người dân vẫn còn, nhất là khi
đó, đảng Cộng sản đã phát động công cuộc đổi mới nền kinh tế, trên lý thuyết là
toàn diện, triệt để.
- Khả năng lãnh đạo của đảng Cộng sản
giúp cho chế độ vượt qua các cuộc khủng hoảng trong quá khứ là rất đáng kể. Khả
năng lèo lái của đảng CS đưa chế độ thoát hiểm được hỗ trợ rất nhiều bởi các yếu
tố: hào quang quá khứ (chiến thắng mấy cuộc chiến tranh); sự đồng thuận trong đảng
CS; dự trữ lòng tin của người dân…đến nay, thật rõ ràng, các yếu tố này không
còn tồn tại…
2/ Quan điểm lạc quan, tin vào sự đột phá về
chính trị hoặc sự sụp đổ của nền kinh tế.
Một số người có quan điểm rất rõ ràng về
nguy cơ sụp đổ của nền kinh tế trong tương lai gần. Người ta cho rằng, sẽ có
hai xu hướng chính sau: một, sự đột phá về chính trị, kéo theo sự đột phá về niềm
tin, giúp chặn đứng cuộc khủng hoảng, từng bước phục hồi và phát triển nền kinh
tế; hai, sự sụp đổ của nền kinh tế kéo theo sự sụp đổ của chế độ. Nói một cách
dễ hiểu, hoặc có sự chủ động thay đổi chế độ, hoặc nếu không có sự chủ động
thay đổi chế độ thì nền kinh tế cũng sụp đổ kéo theo sự sụp đổ và cuối cùng là
thay đổi chế độ. Lập luận chính của luồng ý kiến này tập trung vào những điểm
sau.
- Trước hết và trên hết, đó là sự vi phạm
nghiêm trọng các nguyên lý của nền kinh tế thị trường, sự bóp méo và biến dạng
toàn bộ cấu trúc và cơ chế của nền kinh tế thị trường dẫn tới sự biến dạng toàn
bộ hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế Việt Nam (xem bài “Nền kinh
tế thị trường và nền kinh tế Việt Nam”). Sự tùy tiện, lạm dụng và trục lợi
trong các chính sách kinh tế của nhà nước càng làm nền kinh tế VN gặp phải các
cơn co thắt, nghẹt thở dẫn tới sự đổ vỡ không tránh khỏi của tất cả các ngành
nghề và toàn bộ nền kinh tế. Đây là nguyên nhân cơ bản nhất để khẳng định, nền
kinh tế VN nếu không có sự thay đổi về bản chất sẽ không thể duy trì được sự tồn
tại. Tất cả những đổ vỡ của nền kinh tế hiện nay: tỷ lệ nợ xấu cao của ngân
hàng, nợ công tăng cao, sự đình đốn khủng khiếp của thị trường bất động sản chỉ
là hệ quả và hậu quả tất yếu của nguyên nhân cơ bản nêu trên. Thật ra, về mặt
lý thuyết, nền kinh tế Việt Nam không có lý do để tồn tại khi vi phạm nghiêm trọng
các nguyên lý kinh tế thị trường, cấu trúc và cơ chế nền kinh tế biến dạng hoàn
toàn so với nền kinh tế bình thường. Nhưng nền kinh tế VN đã tồn tại, nhờ xuất
phát điểm của mình, và những may mắn kỳ lạ. Chính vì vậy, nếu tiếp tục duy trì
hiện trạng kinh tế như hiện nay, không có sự thay đổi về bản chất, thì sự sụp đổ
của nền kinh tế là không thể tránh khỏi.
- Trong điều kiện nền kinh tế đổ vỡ, đình
trệ và kém hiệu quả, nguồn chi của nhà nước vẫn vô cùng lớn. Nguồn chi của nhà
nước bao gồm chi thường xuyên và chi cho các yêu cầu chính trị. Nguồn chi thường
xuyên, như các phân tích trước đây (trong bài: “Tương lai nào cho phong trào
Dân chủ Việt Nam” – 2008) và thực tế đang diễn ra, là một con số khủng khiếp. Nếu
tính cả lương trong khu vực doanh nghiệp nhà nước, các quỹ lương hưu (bảo hiểm
xã hội) mà nhà nước thống nhất quản lý, thì số người được hưởng phụ cấp từ 10kg
gạo trở lên đến lương Tổng bí thư, con số khoảng 30-40 triệu người. Sự độc quyền
của đảng CS được duy trì cho tới ngày hôm nay có một phần không nhỏ do số người
hưởng lợi quá nhiều từ thể chế này. Tuy nhiên, duy trì sự tồn tại của một hệ thống
mấy chục triệu người trong tình trạng nền kinh tế đổ vỡ hiện nay quả là vấn đề
rất nan giải (xem bài: ĐÃ ĐẾN LÚC PHẢI VAY ĐỂ CHI TIÊU VAY ĐỂ TRẢ NỢ… http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/576467/da-den-muc-phai-vay-de-chi-tieu-vay-de-tra-no.html?).
Nguồn chi cho yêu cầu chính trị cũng ngày càng tăng, không có điểm dừng. Đó là
việc chi cho các ngày lễ lớn trong năm, chi xây dựng tượng đài, nhà truyền thống,
nhà Lưu niệm của các cố lãnh đạo CS, tổ chức các sự kiện quốc tế nhằm mục đích
tuyên truyền…nếu cộng gộp tất cả các địa phương sẽ là con số khổng lồ.
- Mức độ và quy mô tham nhũng hiện nay thực
sự là khủng khiếp. Những người ở trong cơ chế, ít nhiều liên quan tới các dự án
đều rùng mình về mức độ của tình trạng tham nhũng hiện nay. Có những công trình,
chi phí thực chỉ hết hơn 60 triệu đồng, nhưng khi kết toán, số liệu lên tới
trên 250 triệu đồng. Mức độ tham nhũng gấp 3 lần giá trị công trình, và đây là
tình trạng chung của hầu hết các công trình. Lời khai của Dương Chí Dũng trong
vụ Vinashine, về việc hối lộ 500 ngàn đô-la, 1 triệu đô-la cũng chứng minh mức
độ tham nhũng khủng khiếp trong các giao dịch làm ăn tại VN. Với mức độ tham
nhũng khủng khiếp như vậy, trên phạm vi toàn bộ các ngành, các cấp, chúng ta mới
hiểu được tại sao lại có những tổng công ty như Vinashine (nợ 86.000 tỷ đồng).
Đồng thời, chúng ta cũng hiểu rằng nền kinh tế hiện nay rỗng ruột hoàn toàn,
tình trạng “để là áo, tháo là giẻ”
Với các lý do nêu trên, sự sụp đổ của nền
kinh tế hầu như không thể tránh được. Nhưng hiếm khi nào những biến động của nền
kinh tế lại xảy ra độc lập, tức là không liên quan tới các vấn đề xã hội, chính
trị. Điều này có nghĩa là, sự sụp đổ của nền kinh tế VN có thể có các biến thể
về xã hội hoặc chính trị. Nhưng gốc rễ sâu xa, nguyên nhân chính là sự cạn kiện
nguồn lực của thể chế độc tài.
Khi tôi trao đổi với một số người về tương
lai ảm đạm của nền kinh tế VN, rất nhiều người đã phản bác lại bằng câu hỏi
“anh hãy chứng minh tại sao nó sụp đổ, sụp đổ bắt đầu từ đâu? xảy ra như thế
nào?”. Tôi có hỏi ngược lại những người đó rằng, anh hãy lấy một ví dụ, từ trước
tới nay về một Viện nghiên cứu kinh tế trên thế giới, hoặc trường đại học, hoặc
các Think Talk (tạm hiểu: cơ quan nghiên cứu và dự báo chiến lược) nổi tiếng của
nước Mỹ hoặc thế giới, xem đã có cơ quan nào dự báo được như vậy chưa?!? Vấn đề
quan trọng nhất, nền kinh tế VN đã vi phạm nghiêm trọng các nguyên lý của kinh
tế thị trường, đi ngược lại tất cả các quy luật, lý thuyết về phát triển và điều
hành, quản lý nền kinh tế, và hệ quả nhãn tiền đã hiện ra: nợ xấu ngân hàng, nợ
công cao, bất động sản đổ vỡ…và quan trọng nhất, lòng tin của người dân, của giới
đầu tư đã đổ vỡ hoàn toàn. Vì vậy, nền kinh tế không thể tiếp tục sự tồn tại của
nó, đừng nói tới sự phục hồi và phát triển. Chúng ta chỉ có thể dựa và những yếu
tố đó để suy đoán, chứ làm sao có thể nói nó sụp đổ từ đâu, diễn ra như thế
nào?!?
Trong hoàn cảnh hiện tại của nền kinh tế,
vẫn có cách để chặn đứng đà suy thoái, từng bước khôi phục và phát triển nền
kinh tế. Tuy nhiên, như bài viết “Nền kinh tế thị trường và nền kinh tế VN”,
không thể có một giải pháp đơn lẻ nào về kinh tế, thậm chí, một hệ thống giải
pháp nào về kinh tế có thể chặn đứng xu thế rơi tự do của nền kinh tế hiện nay.
Lý do rất giản dị, tất cả các giải pháp về kinh tế từ trước tới nay chưa bao giờ
chạm được vào nguyên nhân cốt lõi đưa tới tình trạng của nền kinh tế hiện nay,
để thay đổi bản chất của nền kinh tế (thực hiện đúng nguyên lý kinh tế thị trường,
thay đổi cấu trúc, cơ chế hoạt động và cơ chế điều hành nền kinh tế). Để làm được
điều này cần một quyết tâm chính trị vô cùng mạnh mẽ, táo bạo và mạo hiểm. Đó
là: Một giải pháp tổng thể về kinh tế, đi kèm với một giải pháp chính trị, đồng
ý cho xuất hiện một hoặc nhiều đảng chính trị khác cùng với lịch trình bầu cử
dân chủ rõ ràng, có sự giám sát của quốc tế.
Xin được giải thích rõ, tại sao cần có sự đột phá về chính trị mới giải quyết được việc
chặn đứng đà suy thoái của nền kinh tế. Một giải pháp tổng thể về kinh tế, nếu
không có đủ quyết tâm về chính trị (hay chính xác hơn, sức ép buộc phải cải tổ,
nếu không sẽ bị đào thải) đảng CS và nhà nước VN sẽ không đủ sức để thực hiện
và đi tới cùng sự thay đổi. Tự bản thân đảng CS không thể tự tạo đủ sức ép cũng
như vượt qua được sự bảo thủ và lợi ích nhóm hiện nay. Chính vì vậy, cần phải
có sức ép từ bên ngoài, để cải tổ toàn diện và triệt để nền kinh tế. Sức ép bên
ngoài đó, chính là khả năng tiếp tục duy trì sự lãnh đạo của đảng CS đối với đất
nước trong điều kiện đa nguyên đa đảng, thậm chí, đó chính là sự tồn vong của đảng
CS.
Trong thực tế, nguồn vốn trong dân còn rất
lớn. Nhưng người dân không còn một chút niềm tin nào vào nền kinh tế, vào đảng
CS và cách thức điều hành, quản lý nền kinh tế hiện nay. Họ đang giữ chặt nguồn
vốn, không đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Tất cả các giải pháp mà đảng
CS và nhà nước hiện nay không thể thuyết phục họ quay trở lại đầu tư. Nhưng nếu
có sự đột phá về chính trị, đảng CSVN tự đặt vào thế sống còn, cho phép các đảng
phái khác xuất hiện và có lịch trình bầu cử dân chủ và quan sát viên quốc tế, họ
sẽ tin đảng CSVN thực lòng muốn thay đổi, muốn cải tổ nền kinh tế tận gốc rễ và
từ niềm tin này, họ sẽ quay trở lại đầu tư, nền kinh tế sẽ được giải cứu.
II/ NHỮNG LỰA CHỌN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM
Đứng trước sự khủng hoảng toàn diện của nền
kinh tế VN hiện nay, ĐCS có những lựa chọn như thế nào nhằm phục hồi nền kinh tế,
cũng như để duy trì độc quyền lãnh đạo đất nước. Chúng ta sẽ tìm hiểu những
tính toán của đảng CSVN, bao gồm cả những dự phòng cho tình huống xấu nhất, và
những khả năng nào có thể diễn ra trong thực tế.
1/ Lựa chọn tối ưu – không khả thi
Lựa chọn tối ưu của ĐCSVN hiện nay, đó là
sự thống nhất trong toàn đảng về mối nguy của nền kinh tế VN sẽ dẫn tới sự tồn
vong của chế độ, từ đó thống nhất giải pháp cải tổ triệt để nền kinh tế, bằng một
sự đột phá về chính trị. Đây chính là giải pháp tối ưu của ĐCSVN, mặc dù phải
trả giá đắt không còn sự độc quyền lãnh đạo đất nước. Nhưng đây lại là giải
pháp, lựa chọn ít khả năng xảy ra nhất vì bản chất của chế độ không thể thực hiện
nổi giải pháp này. Chúng ta xem xét vấn đề theo từng khía cạnh.
a/
Đánh giá đúng tình hình. ĐCS không thể đánh giá đúng tình hình của nền kinh
tế đất nước vì hai lý do: 1- Không có số liệu trung thực, thông tin khách quan
để đánh giá. Chúng ta đều biết, trong các chế độ cộng sản những số liệu, thông
tin đưa ra hoàn toàn không chính xác, đó là những số liệu ma, chạy theo thành
tích. Đây là bản chất của chế độ, từ thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa, kéo dài sang
thời kỳ hiện nay, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khi không có
số liệu trung thực, thông tin khách quan, không thể có được sự đánh giá chuẩn
xác; 2- Những người nắm giữ vận mệnh đất nước , giữ những cương vị chủ chốt
không đủ khả năng để đánh giá đúng tình hình.
b/
Tinh thần hy sinh cho công cuộc cải tổ, cải cách. Chúng ta đều biết răng, bất
kỳ một công cuộc cải cách, cải tổ nào cũng phải có sự hy sinh của những người
thực hiện. Đó là sự hy sinh về lợi ích, công sức và thời gian. Nhưng đảng CSVN
hiện nay, sự gắn kết của các đảng viên trong đảng không còn là lý tưởng (bởi sự
sụp đổ của các nước CS, XHCN trên thế giới và thực tiễn hàng ngày, hàng giờ ở
Việt Nam) mà chỉ là sự gắn kết về lợi ích, nếu không còn lợi ích, thì không còn
sự gắn kết nào duy trì ĐCS. Chính vì vậy, nói tới cải tổ, cải cách là nói tới sự
hy sinh, trước hết là hy sinh lợi ích, sau đó là sự hy sinh to lớn hơn (sự độc
quyền lãnh đạo đất nước) đối với các đảng viên và toàn thể ĐCS sẽ là một sự viển
vông, mơ tưởng hảo huyền.
c/
Thực trạng xung đột lợi ích trong đảng CS. Một lý do nữa, rất quan trọng để
có thể khẳng định không thể có sự thống nhất trong ĐCS về một giải pháp tối ưu
cho tình hình hiện nay. Đó là thực trạng tranh giành quyền lực, lợi ích giữa
các nhóm và các cá nhân trong Đảng vô cùng khốc liệt hiện nay. Giả sử có một
nhóm hoặc một cá nhân, nhận thức được nguy cơ của nền kinh tế dẫn tới sự sụp đổ
của chế độ, người ta cũng không dám đưa vấn đề để thảo luận trong nội bộ cũng
như công khai bởi đó sẽ là cái cớ (quy chụp) vô cùng lợi hại mà các đối thủ
đang chờ sẵn.
Có một ví dụ rất giản dị, nhưng vô cùng gần
gũi và hữu ích, để nói về giải pháp tối ưu của ĐCS trong tình hình hiện nay.
Chúng ta đều biết, nạn mãi lộ (hối lộ lực lượng cảnh sát giao thông) trên phạm
vi toàn quốc hiện nay diễn ra như thế nào. Thế nhưng, đánh giá chính thức của bộ
Công An, cũng như của nhà nước hiện nay chỉ là một bộ phận không nhỏ trong lực
lượng CSGT có hành vi nhận hối lộ, và về cơ bản, trong toàn lực lượng vẫn bảo đảm
sự trong sạch. Cứ giả sử, bộ phận không nhỏ trong lực lượng CSGT nhận hối lộ là
15-20%, thì giải pháp để xử lý, giải quyết tình trạng mãi lộ sẽ rất đơn giản:
rà soát các văn bản luật, quy định dưới luật; tăng cường giáo dục đạo đức, rèn
luyện phẩm chất của cán bộ chiến sĩ; tăng cường lực lượng thanh tra, giám sát;
nâng cao mức kỷ luật để răn đe…Nhưng trong thực tế, một đứa trẻ con ở Việt Nam
hiện nay cũng biết, 100% các chiến sĩ CSGT nhận hối lộ (trừ những đồng chí nào
bị hâm, hoặc thần kinh có vấn đề), thì giải pháp giải quyết vấn nạn mãi lộ sẽ
hoàn toàn khác…100% nhận hối lộ thì vấn đề không phải là hiện tượng mà đó chính
là bản chất, và bản chất đó là do cơ chế sinh ra. Việc giải quyết tận gốc vấn nạn
mãi lộ là giải quyết, xóa bỏ cơ chế sinh ra nạn mãi lộ: đó là xóa bỏ việc hối lộ,
đút lót trong nội bộ lực lượng CSGT để mua công việc (suất) trên các tuyến đường;
xóa bỏ tình trạng nộp tiền hàng tháng, hàng ngày trên các cung đường, các vị
trí trong nội bộ lực lượng CSGT…Đối với toàn bộ các ngành, các cấp và nền kinh
tế hiện nay, giải quyết các vấn nạn cũng chính là giải quyết cơ chế gốc rễ của
tất cả các vấn nạn, xóa bỏ cơ chế đảng Cộng sản độc quyền lãnh đạo đất nước…
2/ Lựa chọn thực tế - hy vọng mong manh
Về mặt công khai, hoặc thống nhất trong
toàn đảng, không có sự đánh giá nào về khả năng sụp đổ của nền kinh tế, kéo
theo sự sụp đổ, thay đổi của chế độ.
Nhưng trong thực tế, ở bộ phận tham mưu (trong phạm vi hẹp) không phải
không có những đánh giá rất sát thực tế và có cả những lựa chọn, giải pháp để cứu
vãn tình hình, cũng như chuẩn bị cho những khả năng xấu nhất xảy ra. Tuy nhiên,
các giải pháp của bộ phận tham mưu này cũng là các giải pháp tổng thể và theo từng
bước căn cứ vào những diễn biến thực tế. Đầu tiên, đó là các giải pháp công
khai, để phục hồi nền kinh tế trong bối cảnh duy trì độc quyền lãnh đạo của
ĐCSVN. Sau đó sẽ là các giải pháp, cho trường hợp nếu có xảy ra sự sụp đổ của
chế độ, đảng CS sẽ biến thái, biến hình nhưng vẫn giữ được sự lãnh đạo đất nước.
Sau cùng, đó sẽ là những giải pháp bảo đảm an toàn cho một nhóm nhỏ trong đó có
bộ phận tham mưu này. Mức độ công khai, cũng như sự phổ biến sẽ giảm dần theo
các đối tượng được bảo vệ trong các giải pháp đưa ra. Mục tiêu mong đợi của các
giải pháp này, trong trường hợp thay đổi chế độ, sẽ là mô hình của nước Nga thời
Pu-tin hiện nay, hoặc của Hun-sen mà nhà nước VN có nhiều kinh nghiệm hỗ trợ. Lực
lượng làm chỗ dựa cho sự biến thái của ĐCS, hoặc sự bảo vệ trong trường hợp có
biến động, đó là lực lượng “dân chủ cuội” mà an ninh VN đã dày công cài cắm và
khống chế. Về cơ bản, lựa chọn thực tế này là các giải pháp thích nghi của ĐCS,
hoặc một nhóm lãnh đạo kết hợp với bộ phận tham mưu để duy trì quyền lực và bảo
đảm an toàn trong những tình huống xấu nhất xảy ra. Đó không phải là giải pháp
lấy lợi ích của đất nước, của nhân dân làm mục tiêu tối thượng trong bối cảnh nếu
thực hiện các mục đích này sẽ làm giảm nhẹ trách nhiệm trong quá khứ của ĐCS,
hướng tới sự hòa giải, hòa hợp dân tộc, đưa dân tộc thực sự bước trên con đường
tự do, dân chủ. Chính vì các giải pháp, lựa chọn không dựa trên các mục tiêu, mục
đích trong sáng, đúng đắn, cộng thêm tình trạng phức tạp trong nội bộ ĐCS và
tâm lý hoảng loạn nếu sự cố xảy ra, lựa chọn thực tế này của ĐCS rất mong manh
vì những trở ngại và phức tạp sau.
- Không có sự tập trung, sự tập hợp sức mạnh
cho một mục tiêu, mục đích. Như trên đã phân tích, các giải pháp lựa chọn của
ĐCS sẽ dựa theo diễn biến tình hình và đi theo các mục tiêu thứ tự đã nêu trên.
Nhưng trong những tình huống khó khăn, hiểm nghèo, chỉ tập trung vào một mục
đích và dồn toàn lực may ra mới hy vọng thành công.
- Mức độ phổ biến cũng như sự tham gia của
các lực lượng vào các lựa chọn rất hạn chế do các mục tiêu thực không thể tiết
lộ (nếu tiết lộ sẽ dẫn tới hoảng loạn). Hiệu quả sẽ rất hạn chế bởi sự hạn chế
về lực lượng và nguồn lực.
- Rất khó để hướng tới mô hình nước Nga của
Pu-tin, bởi mô hình này hình thành tự nhiên, do bối cảnh nước Nga thời hậu
Xô-Viết, chứ không phải kết quả của sự lựa chọn và tính toán từ trước. Mô hình
Hun-sen của Cam-pu-chia cũng khó xảy ra, bởi Hun-sen có tính chính đáng và hào
quang chiến thắng khi bắt tay vào xây dựng chế độ mới. Đó là những yếu tố mà
các cựu đảng viên ĐCS VN không có được, trừ trường hợp một cá nhân hoặc một
nhóm phất cờ ngay trong nội bộ ĐCS thời điểm nguy cấp hiện nay.
- Lực lượng “dân chủ cuội” mà an ninh dày
công cài cắm và khống chế không thể làm chỗ dựa trong những tình huống khẩn cấp
được. Lý do là lực lượng thực hiện nhưng việc này chỉ vì trách nhiệm (ăn lương,
nhận tiền nếu là nhân viên an ninh, đặc tình), hoặc do sợ hãi (bị khống chế phải
làm việc cho an ninh vì có tỳ vết hoặc sợ
tù đày). Khi có biến động hoặc chế độ sụp đổ, những động lực, hoặc áp lực cho
việc làm của họ không còn nữa, phần lớn trong số họ sẽ không tiếp tục công việc
của mình. Rất khó để có sự trung thành của lực lượng “dân chủ cuội” khi sự gắn
kết không phải do lý tưởng hoặc tình nghĩa.
- Một vấn đề rất quan trọng, khi sự cố xảy
ra, sẽ có một tâm lý hoảng loạn cực lớn, có thể làm biến dạng và sụp đổ hoàn
toàn các tính toán, lựa chọn sẵn có của bộ phận tham mưu cho những tình huống
khẩn cấp (tình huống xấu nhất).
3/ Những khả năng hiện thực
Kết cục của chế độ CSVN được quyết định bởi
sự suy kiệt và sụp đổ của nền kinh tế. Nhưng diễn biến của sự thay đổi lại phụ
thuộc vào những biến động kinh tế - xã hội; kinh tế - chính trị và xã hội -
chính trị, tức là những liên đới từ lĩnh vực kinh tế hoặc xã hội dẫn tới biến động
chính trị, hoặc thậm chí đó là sự biến động về chính trị trong nội bộ ĐSCVN. Những
xu hướng sau đây có thể xảy ra trong tương lai gần.
a/ Sự đột biến về kinh tế dẫn tới đột biến
về xã hội, làm sụp đổ dây chuyền các lĩnh vực kinh tế và toàn bộ nền kinh tế. Một
ví dụ điển hình nhất, có thể có sự sụp đổ của một ngân hàng, dẫn tới tâm lý hoảng
loạn của người dân. Người dân đổ xô đi rút tiền ở tất cả các ngân hàng, làm sụp
đổ toàn bộ hệ thống ngân hàng dẫn tới đổ vỡ hoàn toàn nền kinh tế. Chúng ta
không thể biết được, có những đột biến nào có thể xảy ra, khi nền kinh tế đã
suy kiệt và bệnh hoạn ở tất cả các ngành nghề, các lĩnh vực.
b/ Sự đột biến về xã hội, dẫn tới những động
loạn xã hội và thay đổi chế độ. Mặc dù không một ai mong muốn kịch bản này xảy
ra, nhưng đây cũng là một khả năng hiện thực. Xã hội Việt Nam hiện nay, như những
thùng thuốc súng (không phải là một thùng) để cạnh nhau (vấn đề Dân Oan, vấn đề
Tôn giáo, đình công của công nhân, vấn đề Phong trào Dân chủ, vấn đề chủ quyền
thiêng liêng của tổ quốc…vv..). Hiện tại, chưa có hệ thống dây dẫn nào kết nối
tất cả các thùng thuốc súng với nhau, nhưng một ứng xử thô bạo hoặc ngu xuẩn
(hoặc cả hai) có thể cùng lúc làm nổ tung tất cả các thùng thuốc súng sẽ thiêu
hủy chế độ trong chốc lát.
c/ Sự đột biến trong nội bộ ĐCSVN. Nếu
cách đây 3-5 năm, khả năng này không (hoặc chưa) đặt ra thì đến ngày hôm nay, sự
đột biến trong nội bộ của ĐCS là một khả năng hiện thực to lớn. Ở phần trên, những
người khởi xưởng cho công cuộc cải tổ toàn diện của ĐCS, nếu chỉ bó hẹp sự ủng
hộ trong nội bộ ĐCS sẽ rất khó và ít khả năng thành công. Nhưng nếu khéo léo kết
hợp sự ủng hộ trong ĐCS và cả xã hội, khả năng thành công không phải là nhỏ,
trong khi cái giá để trả sẽ không quá đắt. Điều này có nghĩa là, cần có ngọn cờ
(hay sự phất cờ) trong nội bộ ĐCS hướng tới mục tiêu tốt đẹp cho đất nước, cho
dân tộc kết hợp với sự duy trì, tồn tại của ĐCS nhưng không còn trong vai trò độc
quyền, độc đảng nữa. Sự bùng nổ của thông tin và khả năng truyền dẫn thông tin
hiện nay cùng với xã hội dân sự (của phong trào dân chủ, các hội nhóm đoàn thể,
thông tin lề trái…) sẽ là bà đỡ tuyệt vời cho những ý tưởng và hành động cao đẹp
nảy mầm và bùng nổ trong nội bộ ĐCSVN. Xu hướng và trào lưu giải thể các chế độ
độc tài trên thế giới cộng với áp lực quốc tế hiện nay cũng góp phần không nhỏ
thúc đẩy khả năng “tự vỡ” trong nội bộ ĐCSVN.
*************
Không ai có thể biết được diễn biến những
thay đổi sẽ diễn ra trong tương lai. Nhưng những lựa chọn của ĐCS hiện nay sẽ
có tác động rất lớn tới tương lai của đất nước. Nhưng những lựa chọn đó, trước
hết và trên hết, sẽ tác động trực tiếp và nhanh nhất đến tương lai của những
người lựa chọn và đảng Cộng sản Việt Nam bởi vì diễn biến của tình hình có thể
sẽ xảy ra rất sớm và rất nhanh. Lựa chọn sáng suốt nhất cần phải đặt trên nhận
thức đúng đắn nhất: Sự thay đổi là không thể đảo ngược, chế độ Cộng sản Việt
Nam đã đi hết chu kỳ tồn tại của nó. Tương lai của Việt Nam không có chỗ cho độc
tài và những biến thể của độc tài./.
Hà nội, ngày 03/3/2014
Nguyễn
Vũ Bình
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét