NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ NỀN
KINH
TẾ VIỆT NAM
Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn
rất khó khăn, với nhiều biểu hiện của một cuộc tổng khủng hoảng toàn diện, mà mức
độ trầm trọng có lẽ chưa từng có trong lịch sử. Nhận định về nền kinh tế VN hiện
nay rất khó và có nhiều quan điểm rất khác nhau. Một mặt, do không thể có các số
liệu chính xác (theo chuẩn quốc tế và VN) nên không thể đưa ra các đánh giá
khách quan, chính xác. Nhưng măt khác, quan trọng hơn, chưa có sự so sánh nào về
cấu trúc, cơ cấu và cơ chế của nền kinh tế VN với một nền kinh tế thị trường bình thường, lành mạnh nên chúng ta chưa thể
biết rõ mức độ cũng như bản chất cuộc khủng hoảng hiện nay. Bài viết này có mục
đích phân tích sự khác nhau về bản chất giữa nền kinh tế VN và nền kinh tế thị
trường bình thường để từ đó nhận diện xác đáng hơn sự vận hành của nền kinh tế
VN cũng như mức độ mà cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội đang diễn ra hiện nay.
Với mục đích so sánh hai thể chế kinh tế, nền kinh tế thị trường sẽ được trình
bày theo hướng bám sát các khác biệt với nền kinh tế VN, chứ không trình bày
hoàn toàn theo lý thuyết về kinh tế thị trường.
I/ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Một cách tổng quát, nền kinh tế thị trường
là nền kinh tế lấy thị trường làm cơ sở, làm điểm quy chiếu cho tất cả các hoạt
động kinh tế. Thị trường phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn, lao động và công
nghệ. Người sản xuất sẽ căn cứ vào nhu cầu thị trường để quyết định sản xuất
cái gì? Sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Thị trường sẽ quyết định lợi
nhuận của nhà sản xuất, của người kinh doanh. Ngược lại với thị trường, chúng
ta đã biết tới nền kinh tế kế hoạch hóa, tất cả việc sản xuất, phân phối, tiêu
dùng được quyết định bởi trung tâm ra kế hoạch, thường là các bộ kế hoạch của
các nước XHCN cũ.
Tuy nói thị trường quyết định tất cả các
hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, nhưng để cho thị
trường, nền kinh tế vận hành trôi chảy, thuận lợi thì việc xây dựng thể chế
kinh tế thị trường rất quan trọng và phải bảo đảm các yêu cầu nghiêm ngặt.
Chúng ta sẽ tìm hiểu nền kinh tế thị trường
theo ba tiêu chí lớn, và dựa theo ba tiêu chí này, chúng ta sẽ có sự so sánh,
phân biệt được rất rõ nền kinh tế VN với một nền kinh tế thị trường bình thường.
1/ Nguyên lý kinh tế thị trường
Trước hết và trên hết, một nền kinh tế thị
trường muốn vận hành và hoạt động hiệu quả, cần phải tuân thủ các nguyên lý, mà
những nguyên lý này không thể bị vi phạm và can thiệp nếu không muốn có một sự
biến dạng hoàn toàn hoạt động sản xuất kinh doanh của nên kinh tế.
-
Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Trong các sách về kinh tế thị trường, các tác giả thường ít đề cập tới yếu tố
này. Lý do là, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là điều đương nhiên trong các
nước tư bản, nơi các tác giả viết sách về kinh tế thị trường. Trong nguyên lý
này, yếu tố sở hữu tư nhân về đất đai là yếu tố quan trọng, góp phần xây dựng
thể chế kinh tế thị trường và còn là yếu tố xúc tác quan trọng trong các hoạt động
sản xuất kinh doanh của nền kinh tế thị trường.
-
Thị trường quyết định giá cả tất cả các
loại hàng hóa trong nền kinh tế thị trường. Cung – Cầu sẽ quyết định giá cả các
loại hàng hóa là tiền đề quan trọng cho việc thị trường phân bổ có hiệu quả các
yếu tố của quá trình sản xuất như vốn, lao động, công nghệ…Bất kỳ một sự can
thiệp, tác động nào dẫn tới việc giá cả hàng hóa không được định đoạt bởi tương
quan cung – cầu sẽ làm biến dạng và méo mó toàn bộ quá trình sản xuất kinh
doanh của nền kinh tế.
-
Tương quan giữa lượng tiền tệ được phát
hành và lưu thông với lượng hàng hóa được sản xuất ra ở mỗi quốc gia cần được
tuân thủ nghiêm ngặt. Tỷ lệ giữa lượng tiền phát hành cần tương ứng với lượng
hàng hóa mà quốc gia (nền kinh tế) sản xuất được. Nếu mối tương quan này bị phá
vỡ, ví dụ lượng tiền in ra lớn hơn tỷ lệ tương quan với lượng hàng hóa sản xuất
được sẽ dẫn tới lạm phát, làm đảo lộn các hoạt động sản xuất kinh doanh của nền
kinh tế.
2/ Môi trường thể chế của nền kinh tế thị
trường
Ngoài việc bảo đảm các nguyên lý của nên
kinh tế thị trường, các quốc gia cũng cần xây dựng môi trường thể chế cho hoạt
động của toàn bộ nền kinh tế. Xây dựng môi trường thể chế bao gồm xây dựng các
bộ luật, các quy tắc ứng xử, cũng như môi trường xã hội xung quanh các hoạt động
kinh tế. Các yếu tố quan trọng nhất của môi trường thể chế cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của nền kinh tế thị trường bao gồm:
- Tính trung thực, công khai và minh bạch
của thông tin trong nền kinh tế thị trường. Chúng ta đều biết rằng, muốn quyết
định sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có đầy đủ các thông tin về mọi vấn đề
liên quan tới các mặt hàng, ngành hàng mà họ dự định tham gia kinh doanh. Nếu
không có đầy đủ các thông tin khách quan, trung thực, các doanh nghiệp sẽ không
dám đầu tư. Nếu cứ quyết định kinh doanh trong khi không có đầy đủ các thông
tin trung thực, sự thất bại là không tránh khỏi.
- Tạo lập sân chơi bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế, các doanh nghiệp, cá nhân tham gia vào nền kinh tế thị trường.
Bất kể quốc gia nào, muốn nền kinh tế thị trường phát triển và hiệu quả, đều phải
tạo dựng sân chơi bình đẳng cho tất cả các thành phần tham gia, trong toàn bộ
quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Đây cũng chính là một
trong số các chức năng của chính phủ trong nền kinh tế thị trường.
- Xây dựng môi trường lành mạnh cho các
hoạt động chung của xã hội cũng như các hoạt động trong nền kinh tế. Đây chính
là việc xây dựng cơ chế luật pháp và giáo dục để hạn chế và ngăn chặn tham
nhũng ở các quốc gia. Tham nhũng là yếu tố tác động rất tiêu cực vào sự phát
triển và hiệu quả của bất kỳ nền kinh tế nào.
Ngoài các yếu tố trên, việc tạo lập đồng bộ
các thị trường (thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường đất đai…), và một
số yếu tố khác góp phần xây dựng nên môi trường thể chế cho một nền kinh tế thị
trường lành mạnh.
3/ Tác động chính sách
Song song với việc bảo đảm các nguyên lý của
kinh tế thị trường, xây dựng môi trường thể chế trong nền kinh tế thị trường,
các Chính phủ còn có các chính sách tác động vào nền kinh tế nhằm làm phẳng bớt
các chu kỳ kinh doanh của nền kinh tế, cũng như thực hiện các mục tiêu cụ thể của
Chính phủ trong các nhiệm kỳ cụ thể. Ví dụ, các chính sách tiền tệ, là việc
tăng hay giảm lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế; chính sách tài chính, là
việc tăng giảm chi tiêu của Chính phủ, tác động tới đầu tư; ngoài ra là các chính
sách trợ giá nông sản, chính sách xuất nhập khẩu…Tuy nhiên, các chính sách của
các chính phủ dân chủ tác động tới nền kinh tế thị trường bao giờ cũng căn cứ
vào: 1- nhu cầu thực tế của thị trường, đồng thời bảo đảm không vi phạm các
nguyên tắc, nguyên lý và quy luật của thị trường; 2- các chính sách phải rõ
ràng, minh bạch, đồng bộ và ổn định.
II/ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Nền kinh tế VN, bắt đầu chuyển đổi cơ chế
kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường (định hướng Xã hội CN) từ năm
1985-1986, đến nay đã được gần 30 năm. Bỏ qua những vấn đề thuộc về tuyên truyền
và lý thuyết, căn cứ vào các yếu tố của nền kinh tế thị trường nêu trên, chúng
ta có nhận xét chung, đó là: Nền kinh tế VN không phải là một nền kinh tế
thị trường. Là một nước Cộng Sản, với danh xưng XHCN, đặc điểm nổi bật
của các nhà nước toàn trị là sự can thiệp của chính trị vào tất cả các mặt của
đời sống kinh tế - xã hội của người dân. Chúng ta phân tích sự can thiệp của
chính trị vào các yếu tố của kinh tế thị trường để thấy được hiện trạng của nền
kinh tế hiện nay là hệ quả tất yếu của việc vi phạm nghiêm trọng các nguyên lý
của kinh tế thị trường, cũng như sự yếu kém, thất bại trong xây dựng môi trường
thể chế và sự lạm dụng, tùy tiện và trục lợi trong các chính sách kinh tế hiện
hành.
1/ Sự vi phạm nghiêm trọng, thô bạo các
nguyên lý kinh tế thị trường
- Vi phạm nguyên lý về sở hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất. Chúng ta đều biết rằng, đất đai là sở hữu toàn dân, không phải
là tư hữu đất đai. Điều này làm biến dạng và đảo lộn hoàn toàn tất cả các hoạt
động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Bởi vì đất đai là tư liệu
sản xuất đặc biệt, nó chính là nền tảng cho tất cả các hoạt động sản xuất kinh
doanh khác. Nó là gốc rễ cho hoạt động Nông nghiệp, là cơ sở (mặt bằng, một yếu
tố quan trọng của sản xuất, kinh doanh) cho các hoạt động kinh doanh. Đất đai
không phải là sở hữu tư nhân, không được đưa vào thành thị trường nhà đất bình
thường, không được định giá theo quan hệ cung cầu trên thị trường mà bằng sự định
giá của Nhà nước, đi ngược quy luật thị trường dẫn tới những hậu quả vô cùng nặng
nề về kinh tế, và cả về xã hội. Vi phạm chế độ tư hữu về đất đai là vi phạm
nguyên lý quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường. Mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh trong nền kinh tế VN đều bị bóp méo và biến dạng bởi yếu tố này.
- Giá cả các mặt hàng thiết yếu không phải
do thị trường quyết định. Nói cách khác, có sự vi phạm nghiêm trọng về nguyên
lý Cung – Cầu quyết định giá cả hàng hóa. Chúng ta đều biết rằng, các mặt hàng
thiết yếu của nền kinh tế Việt Nam như điện, nước, xăng dầu….do nhà nước quản
lý, không do cung cầu trên thị trường quyết định, thậm chí vàng và đô-la cũng
có lúc bị vi phạm quy luật cung cầu.
- Nguyên lý về mối tương quan giữa lượng
tiền phát hành và lượng hàng hóa được sản xuất ra cũng bị vi phạm nghiêm trọng.
Nhà nước VN, từ khi thành lập tới nay, đều giữ bí mật về lượng tiền in ra, phát
hành. Ngoài mấy lần đổi tiền, làm người dân vô cùng điêu đứng, thì khi bước vào
chuyển đổi cơ chế kinh tế, chuyển sang kinh tế thị trường cũng liên tục vi phạm
nguyên lý về mối tương quan giữa lượng tiền phát hành và năng lực của sản xuất
của nền kinh tế. Việc in tiền không căn cứ và không có giới hạn khiến cho giá cả
hàng hóa năm nào cũng tăng ít nhất từ 20-50%/năm (trong khi các nền kinh tế thị
trường chỉ từ 5-7%). Đồng tiền mất giá đã bóp méo toàn bộ quá trình sản xuất
kinh doanh cũng như giảm mức sống mà người dân đáng ra phải được hưởng.
2/ Thất bại trong việc xây dựng môi trường
thể chế lành mạnh, khuyến khích hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân.
- Không tạo dựng được sân chơi bình đẳng
cho các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp và các cá nhân kinh doanh. Ưu tiên
quá mức cho doanh nghiệp nhà nước đã làm biến dạng toàn bộ nền kinh tế. Doanh
nghiệp Nhà nước được đầu tư 70% nguồn vốn toàn xã hội, nhưng chỉ tạo ra được
40% giá trị sản phảm cho nền kinh tế. Không những thế, DNNN chính là các núi nợ
khổng lồ mà nền kinh tế đã và đang phải gánh vác. Ví dụ điển hình là tập đoàn
Vinashine nợ 86.000 tỷ đồng không có khả năng thanh toán. Các tập đoàn kinh tế
khác, cùng một cơ chế, cùng một con người, cũng ở trong tình trạng tương tự.
- Thông tin trong xã hội, trong nền kinh
tế VN hiện nay loại trừ hoàn toàn các thuộc tính trung thực, công khai và minh
bạch. Bản thân các bộ luật, luật đã thiếu sự minh bạch, rõ ràng nhưng kèm theo
là các quy định, văn bản hướng dẫn thi hành luật còn làm cho mọi thông tin trở
nên rắc rối và khó hiểu hơn. Tính trung thực của thông tin trong nền kinh tế VN
là một điều xa xỉ. Sự không trung thực bắt nguồn từ hệ thống chính trị, thẩm thấu
vào hệ thống quản lý và lan tỏa ra toàn xã hội. Điều này thì không người dân VN
nào không thấu hiểu bởi họ vừa là nạn nhân lại vừa là thủ phạm.
- Thất bại hoàn toàn trong việc xây dựng
môi trường kinh doanh lành mạnh tại VN. Ở VN, tham nhũng xuất hiện ở tất cả các
ngành nghề, các cấp, len lỏi vào mọi ngõ ngách, khía cạnh của đời sống kinh tế
- xã hội của người dân. Ở một đất nước mà người bệnh nhân cần hối lộ bác sỹ để
tiêm không bị đau thì không còn một cái gì trên đời không thể bị hối lộ, tham
nhũng. Năm 2000, tôi đã viết rằng: "Tham nhũng ở VN là phương thức tự tồn
tại của tất cả những người có điều kiện tham nhũng do mức lương khốn khổ cộng với
tình trạng mua quan bán tước nở rộ hiện nay” (Việt Nam và con đường phục hưng đất
nước). Sau 13 năm, chúng ta càng xót xa hơn khi đọc lại những dòng chữ này.
3/ Tác động chính sách
Chính sách kinh tế ở VN đi ngược lại hoàn
toàn các tiêu chí trong nền kinh tế thị trường như làm phẳng bớt các chu kỳ
kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ các ngành nghề, khu vực khó khăn, đặc
thù… Các chính sách kinh tế được ban hành và thực thi tùy tiện, lạm dụng và trục
lợi gây ra muôn và khó khăn cho người dân, doanh nghiệp và thị trường….chúng ta
tìm hiểu điều này qua các ví dụ sau đây.
+ Một công ty của nhà nước, có chức năng
in ấn các ấn phẩm của Đảng, được trang bị hệ thống in ấn hiện đại nhất, chỉ thực
hiện nhiệm vụ chính trị. Nhưng công ty lại thực hiện việc in thuê bên ngoài, với
lợi thế không phải khấu hao đầu tư máy móc (hiện đại nhất), thậm chí nguyên vật
liệu (giấy), công nhân của công ty. Họ nhận in ngoài với giá 1000đ/trang in.
Trong khi đó, các công ty khác, nhất là tư nhân phải chịu mọi chi phí, giá in
thấp nhất của họ đã là 2100đ/trang in, họ không thể cạnh tranh được với công ty
in nói trên, sự tác động của chính trị đã làm méo mó quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh của ngành in ấn…
+ Chúng ta đã nhiều lần nghe việc Đường sản
xuất trong nước còn rất nhiều, nhưng nhà nước vẫn cho nhập khẩu đường, không
theo các lộ trình, kế hoạch hoặc chính sách nhập khẩu có sẵn (làm tùy tiện) khiến
cho doanh nghiệp sản xuất Đường vô cùng điêu đứng. Các doanh nghiệp đầu tư sản
xuất phụ tùng ô-tô, xe máy ban đầu tin vào các nghị quyết, kế hoạch của chính
phủ, tỷ lệ nội địa hóa trong vòng 10 năm là 60%. Nhưng chỉ sau 3-5 năm, việc nhập
khẩu phụ tùng ô-tô, xe máy đã làm họ điêu đứng.
+ Việc trục lợi chính sách được biết đến
qua ví dụ mô phỏng sau. Người làm chính sách Xuất nhập khẩu, có liên hệ làm ăn
với doanh nghiệp kinh doanh thép, trước khi cấm nhập một loại thép (A), họ
thông báo trước cho doanh nghiệp kinh doanh thép thu gom mặt hàng thép (A) trên
thị trường, từ các doanh nghiệp khác, sau đó họ cấm nhập khẩu thép (A) trong thời
gian 6 tháng đến 1 năm. Mối lợi được chia cho người làm chính sách chắc chắn là
không nhỏ.
Qua các ví dụ trên, chúng ta có thể thấy sự
lạm dụng, tùy tiện và trục lợi về chính sách kinh tế góp phần làm điêu đứng các
doanh nghiệp, người dân. Cùng với các khiếm khuyết và hạn chế khác, đã tiêu diệt
lòng tin của người dân vào việc nhà nước xây dựng nền kinh tế thị trường phát
triển và hiệu quả.
*****************
Với tất cả những khiếm khuyết của nền kinh
tế VN so với nền kinh tế thị trường bình thường, với việc vi phạm nghiêm trọng
các nguyên lý của kinh tế thị trường, thất bại trong việc xây dựng môi trường
thể chế cho nền kinh tế, cũng như việc trục lợi chính sách, tại sao nền kinh tế
VN vẫn phát triển từ khi mở cửa nền kinh tế đến nay? Có hai vấn đề cần hiểu rõ.
Thứ nhất, xuất phát điểm của nền kinh tế
VN là nền kinh tế kế hoạch hóa. Chúng ta hình dung nền kinh tế đó như một người
bị trói vào cột, bằng các vòng dây kín từ chân lên đầu (chỉ hở mũi để thở).
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, mặc dù vi phạm nghiêm trọng các nguyên lý
(như đã nêu trên) thì đối với nền kinh tế kế hoạch hóa, đó cũng vẫn là một sự
“cởi trói”. Các vòng dây được tháo ra, người bị trói đã cử động được cái đầu,
cái tay, cái chân….Kết quả tăng trưởng của nên kinh tế VN mấy chục năm qua,
chính là hệ quả của việc “cởi trói” này. Tuy nhiên, vẫn còn đó những vòng dây
trói hữu hình (về pháp lý) đối với cơ thể kinh tế, đó là sở hữu toàn dân về đất
đai, đó là việc áp đặt giá cả đối với các mặt hàng thiết yếu, đó là việc ưu
tiên quá mức cho doanh nghiệp nhà nước…Và các vòng dây trói vô hình như: in tiền
vượt quá năng lực sản xuất của nền kinh tế dẫn tới lạm phát, tham nhũng nặng nề
trong tất cả các công việc và giao dịch làm ăn, sự trục lợi chính sách…khi nền
kinh tế phát triển đến một mức độ nhất định, thì cơ thể kinh tế bắt gặp các
vòng dây trói hữu hình và vô hình, cộng với sự biến dạng sẵn có, đã tạo ra những
hậu quả vô cùng nặng nề và một sự bế tắc toàn diện.
Thứ
hai, mặc dù nhìn nhận có sự tiến bộ trong nền kinh tế VN mấy chục năm qua,
nhưng về cơ bản, sự phát triển của nền kinh tế VN vừa qua chỉ là sự gia tăng đầu
ra, kết quả của sự gia tăng đầu vào. Chỉ số ICOR, chỉ số về tăng trưởng đầu tư,
tức là muốn có một đơn vị đầu ra của nền kinh tế, thì đầu vào của nền kinh tế
VN là từ 5-6 đơn vị, gấp rưỡi chỉ số của nền kinh tế Thái Lan, đã phản ánh hiệu
quả của nền kinh tế VN là rất thấp. Không những vậy, khoản nợ của nền kinh tế
VN là rất lớn, ước tính gấp đôi GDP. Điều này cũng thể hiện sự phát triển của nền
kinh tế VN không bình thường và lành mạnh.
Ngay từ cách nay hơn chục năm, cá nhân tôi
đã băn khoăn về sự khác biệt giữa nền kinh tế VN và nền kinh tế thị trường lành
mạnh, bình thường. Khi đó, chưa có sự phân tích và phân biệt rõ sự khác nhau
này, nhưng bằng trực giác, tôi đã thấy sự phát triển của nền kinh tế VN có nhiều
yếu tố bấp bênh của một nền kinh tế thiếu khả năng phát triển bền vững, lành mạnh.
Thậm chí, tôi chỉ đi tìm hiểu lý do tại sao nền kinh tế VN vẫn tồn tại mà không
bị đột quỵ, bởi các quy luật thị trường (và của nền kinh tế) bị vi phạm nghiêm
trọng, cách thức quản lý và điều hành nền kinh tế không tuân thủ bất kỳ một
nguyên tắc, nguyên lý nào của kinh tế thị trường? những băn khoăn thắc mắc của
tôi tập trung vào hai vấn đề chính: tại sao nền kinh tế VN đã không xảy ra siêu
lạm phát khi mà việc phát hành (in) tiền của nhà nước gần như không có giới hạn?
vấn đề thứ hai, VN sẽ giải quyết ra sao đối với các khoản vay, khoản nợ? Sau một
thời gian, tôi đã khám phá ra câu trả lời cho băn khoăn thứ nhất. Và băn khoăn
thứ hai của tôi, cũng được dự phóng giải đáp khi phân tích đầy đủ sự khác biệt
giữa nền kinh tế VN và nền kinh tế thị trường lành mạnh, bình thường.
* Về lý do tại sao với lượng tiền in không
giới hạn của nhà nước vào lưu thông, VN không bị siêu lạm phát, mặc dù lạm phát
trung bình hàng năm lúc nào cũng ở mức cao 20-50%/năm, lớn hơn rất nhiều so với
một nền kinh tế bình thường (5-7%). Chúng ta biết rằng, lượng tiền nội địa in
ra cần căn cứ vào lượng hàng hóa được sản xuất ra hàng năm, và đối với việc giữ
vững tỷ giá hối đoái cần căn cứ, tham khảo số lượng ngoại tệ lưu thông trên phạm
vi quốc gia. Lượng tiền đồng VN in ra, thật kỳ lạ và may mắn, số lượng ngoại tệ
đầu tư vào VN, cộng với số kiều hối hàng năm đã trung hòa và không làm gia tăng
đáng kể tỷ giá hối đoái của Việt Nam đồng so với đô-la. Một may mắn kỳ lạ khác,
nếu chỉ dựa vào sức sản xuất của nền kinh tế VN hiện tại, chắc chắn đã có siêu
lạm phát xảy ra, nhưng VN ở sát cạnh Trung Quốc, hàng năm nhập khẩu số lượng
hàng hóa chất lượng thấp, giá rẻ từ 10-20 tỷ đô-la. Điều này vô hình chung, lượng
hàng hóa của Trung Quốc đã trung hòa số lượng tiền mà VN in ra, mặc dù mức lạm
phát vẫn cao (20-50%/năm) nhưng chưa xảy ra siêu lạm phát.
* Băn khoăn thứ hai, khoản nợ của VN. Trước
hết chúng ta cần tìm hiểu , khoản nợ thực của VN ước lượng là bao nhiêu? Theo số
liệu chính thức, số nợ của VN vào khoảng 95% GDP (GDP của VN khoảng trên 100 tỷ
đô-la), xếp vào dạng số nợ tương đối cao (trên ngưỡng an toàn 65%GDP). Tuy
nhiên, thực tế lại không phải như vậy. Chúng ta phân tích về nợ xấu của ngân
hàng hiện nay để có thể tìm hiểu thêm về cách tính toán cũng như sự chính xác của
các số liệu. Theo công bố của các ngân hàng thương mại hiện nay, số nợ xấu của
họ chỉ vào khoảng 5-7% trên tổng dư nợ. Các số liệu của các chuyên gia nước
ngoài, khoảng trên 10% nợ xấu trên tổng dư nợ. Thật ra, nếu đúng là ngân hàng
chỉ có nợ xấu như số liệu quốc tế công bố, họ không cần mảy may lo lắng, vì
trong nền kinh tế VN hiện nay, bất kể doanh nghiệp, ngân hàng hay cá nhân nào nợ
xấu chỉ chiếm khoảng 1/3 tổng dư nợ đã là niềm hạnh phúc mà ít người có được. Nợ
xấu của hệ thống ngân hàng VN, theo thiển ý của tôi, có lẽ khoảng 80-90% trên tổng
dư nợ. Đó mới là con số thực. Chỉ cần nêu ra các khiếm khuyết trong cách tính nợ
xấu của các ngân hàng là hiểu ngay vấn đề. Trước hết, cách tính nợ xấu của ngân
hàng VN không giống cách tính nợ xấu của quốc tế. Ví dụ, một doanh nghiệp nợ
ngân hàng 1 tỷ đồng sẽ trả nợ trong một năm, mỗi quý trả 250 triệu đồng. Nếu
quý I, doanh nghiệp không trả được 250 triệu đồng, thì các ngân hàng quốc tế sẽ
tính số nợ xấu là 1 tỷ đồng (với lập luận 250 triệu đồng không trả được thì trả
sao được 1 tỷ đồng), còn ngân hàng VN chỉ tính nợ xấu là 250 triệu đồng. Như vậy
đã có sự chênh lệch rất lớn trong cách tính nợ xấu. Một vấn đề khác, các ngân
hàng VN hiện nay, ngân hàng nào cũng có một lượng trái phiếu chính phủ lớn
trong quyết toán của mình, những trái phiếu này, nếu đem tính với nhà nước thì
có giá trị, nhưng nếu trong tình hình nền kinh tế bất ổn thì số trái phiếu này
hoàn toàn không có giá trị. Chúng ta đã biết rằng, lượng tiền in ra của nhà nước
đã rất lớn, vượt quá khả năng sản xuất của nền kinh tế, giá trị đồng tiền rất bấp
bênh, vậy thì trái phiếu của chính phủ còn giá trị gì khi nền kinh tế có đột biến.
Chính vì vậy, nếu tính cả số trái phiếu này (hầu như không có giá trị) thì số nợ
xấu thực của hệ thống ngân hàng phải lên tới 80-90% tổng dư nợ.
Như vậy, chúng ta đã tìm hiểu cách tính nợ
xấu của ngân hàng ở VN hiện nay. Việc tính tổng số nợ của nền kinh tế VN còn
khó khăn và phức tạp hơn gấp bội. Cá nhân tôi nghiêng về ý kiến cho rằng nợ xấu
của VN hiện nay gấp đôi GDP, và tôi cho rằng đó là con số vừa phải nhất, sát thực
tế nhất.
Nhưng vấn đề đặt ra không phải nợ xấu là
bao nhiêu, mà khả năng trả nợ của nền kinh tế mới là vấn đề đáng quan tâm nhất
hiện nay (các nước như Mỹ, Nhật số nợ gấp rưỡi hoặc gấp đôi GDP là bình thường,
bởi họ có nền kinh tế lành mạnh, đủ khả năng trả nợ). Và đi sâu vào phân tích nền
kinh tế VN hiện nay, có sự khác biệt về bản chất với nền kinh tế thị trường
bình thường, lành mạnh, chúng ta đều biết rõ, khả năng trả nợ của nền kinh tế
là con số không tròn trĩnh. Chúng ta đều biết rằng, việc vi phạm nghiêm trọng
các nguyên lý cơ bản của nền kinh tế thị trường sẽ dẫn tới méo mó, biến dạng
trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Không những vậy, việc không tạo lập đồng bộ
các thị trường, ưu tiên quá mức cho doanh nghiệp nhà nước (thua lỗ triền miên)
khiến cho hiệu quả của nền kinh tế rất thấp, các doanh nghiệp tư nhân không được
đối xử bình đẳng, chật vật duy trì sự tồn tại của mình. Cơn hồng thủy tồn đọng
bất động sản vừa quét qua đã làm gãy đổ những hy vọng cuối cùng của việc cố gắng
khôi phục, duy trì nền kinh tế luôn đi ngược lại các quy luật thị trường.
* Qua những phân tích về sự khác biệt giữa
nền kinh tế VN và nền kinh tế thị trường nêu trên, kết hợp với sự quan sát và
nghiên cứu thực tiễn phát triển kinh tế ở VN, bất kể một người nào, có chút kiến
thức về kinh tế đều đi tới kết luận: không thể có một giải pháp đơn lẻ nào về
kinh tế có thể giải quyết được các khủng hoảng về cấu trúc, cơ chế và thực tiễn
của nền kinh tế VN. Để giải quyết tất cả các hậu quả, hệ quả của nền
kinh tế (nợ xấu ngân hàng, nợ công…), để khôi phục một nền sản xuất hiệu quả,
hay ngắn gọn hơn, để đưa nền kinh tế VN vào đúng đường ray của một nền kinh tế
thị trường, cần có một giải pháp tổng thể. Đó là loại bỏ tất cả các yếu tố
chính trị trong một nền kinh tế, trả kinh tế về cho các quy luật của thị trường.
Cơ thể kinh tế của VN hiện nay không còn mặc vừa chiếc áo độc quyền chính trị nữa,
nó chỉ có hai lựa chọn: hoặc đột tử, hoặc thay bộ quần áo đa nguyên, tức loại bỏ
hoàn toàn các yếu tố chính trị ra khỏi đời sống kinh tế thị trường./.
Hà Nội, ngày 09/02/2014
Nguyễn Vũ Bình
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét